GIỚI THIỆU CHUNG Bệnh viện Nhi Trung ương là bệnh viện chuyên khoa Nhi đầu ngành với 600 giường bệnh, 23 khoa lâm sàng, 10 khoa cận lâm sàng. Hàng năm bệnh viện khám chữa bệnh cho hơn 381.000 bệnh nhân ngoại trú và 42.000 bệnh nhân nội trú với tỉ lệ sử dụng giường bệnh là 160%.
Mặc dù bệnh viện luôn ở trong tình trạng quá tải nhưng bệnh viện vẫn thực hiện tốt 07 chức năng nhiệm vụ chính bao gồm khám chữa bệnh, đào tạo, nghiên cứu khoa học, quản lý bệnh viện, chỉ đạo tuyến và hợp tác quốc tế nhờ tăng cường ứng dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ vào các hoạt động của bệnh viện, trong đó có hoạt động nghiên cứu, đào tạo, tư vấn, khám chữa bệnh từ xa.
SỰ CẦN THIẾT
Sự quá tải của Bệnh viện Nhi Trung ương ngày một tăng. Số lượng bệnh nhân ngoại trú tăng từ 283.925 bệnh nhân năm 2004 lên 350.161 (năm 2005), 381.101(năm 2006) và khoảng >400.000 năm 2007. Số lượng bệnh nhân nội trú tăng từ 31.125 bệnh nhân năm 2004 lên 42.614 (năm 2006) và khoảng hơn 48.000 năm 2007.
Hiện nay số giường bệnh nhi khoa ở các tỉnh còn hạn hẹp, chỉ chiếm 8 – 13% so với tổng số giường bệnh chung ở các bệnh viên đa khoa tỉnh. Các tỉnh rất thiếu bác sĩ nhi, nhất là ở các tỉnh miền núi, vùng xa. Các bác sĩ chuyên ngành nhi khoa còn chưa đáp ứng với nhu cầu thực tế, chỉ chiếm khoảng 10 -20% so với bác sĩ trong bệnh viện của các tỉnh. Trang thiết bị cấp cứu nhi ban đầu tại các bệnh viện tuyến huyện và tỉnh còn thiếu, năng lực cấp cứu nhi của cán bộ y tế tuyến dưới còn hạn chế. Do vậy, nhiều ca bệnh ở trẻ em có thể rất thông thường nhưng vẫn làm họ lúng túng trong chẩn đoán và điều trị. Việc chuyển bệnh nhân lên tuyến trung ương hay mời bác sĩ từ Hà nội về đều khó khăn và tốn kém.
Mặt khác, tình trạng vận chuyển bệnh nhân từ tuyến dưới lên tuyến trên còn nhiều bất cập, phương tiện vận chuyển không đảm bảo qui trình và chất lượng, dẫn đến việc bệnh nhân rất dễ tử vong trên đường vận chuyển vì đường xa, phương tiện cấp cứu trên xe hầu như không có hoặc rất thô sơ.
Đối với các bệnh viện ở các tỉnh ở xa, thông tin khoa học còn hạn chế, nhất là trong các trường hợp khó, phức tạp cần phải tức thời hỏi ý kiến của các nhà chuyên môn sâu. Nhu cầu về đào tạo, trao đổi và nâng cao kiến thức nhi khoa cho các cán bộ y tế và nhân dân ngày càng cao.
Nhu cầu về trao đổi kinh nghiệm, cập nhật thêm kỹ thuật mới, hợp tác quốc tế giữa bệnh viện và các trung tâm y khoa và bệnh viện đầu ngành trên thế giới ngày càng phát triển cả về chất và lượng,
Do đó, hoạt động hội thảo, hội chẩn, tư vấn, khám chữa bệnh từ xa của bệnh viện Nhi Trung ương là cần thiết để góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc, điều trị, giảm tải cho bệnh viện, nâng cao kiến thức và năng lực nhi khoa cho đội ngũ nhân viên bệnh viện, cho tuyến dưới, giúp bệnh nhân và gia đình tiết kiệm chi phí và có được kết quả khám chữa bệnh kịp thời và hiệu quả nhất.
MỤC TIÊU
- Nâng cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ trẻ em, giảm chi phí điều trị.
- Tăng cường trao đổi kinh nghiệm, nâng cao kiến thức với đồng nghiệp trong và ngoài nước. Mở rộng các hoạt động nghiên cứu khoa học, giáo dục đào tạo cho các cán bộ y tế và phát triển hợp tác quốc tế.
- Bổ sung, hỗ trợ nâng cao kiến thức và chuyển giao kỹ thuật mới cho nhân viên y tế tuyến cơ sở.
- Giảm tải cho bệnh viện tuyến trên và Trung ương
NỘI DUNG DỊCH VỤ
Ứng dụng công nghệ thông tin và viễn thông với khả nǎng truyền thông tin dưới dạng âm thanh, tín hiệu, hình ảnh.
Tiến hành các hoạt động y tế từ xa qua mạng internet như:
- Tư vấn chẩn đoán, khám chữa bệnh từ xa,
- Hợp tác nghiên cứu khoa học từ xa
- Đào tạo cán bộ từ xa
- Hội thảo trực tuyến
- Tư vấn giải phẫu bệnh từ xa
- Chẩn đoán hình ảnh từ xa
- Tư vấn, hợp tác phẫu thuật từ xa
Mỗi hoạt động y tế từ xa cùng một thời điểm có thể có sự tham gia của nhiều đơn vị với nhiều chuyên gia và nhân viên Y tế. Bệnh viện Nhi Trung ương đã thành lập một nhóm về Telemedicine bao gồm:
- Ban cố vấn: Các chuyên gia đầu ngành của bệnh viện
- Tổ kỹ thuật: nhân viên IT, cử nhân ngoại ngữ
Ngoài ra, Bệnh viện Nhi Trung ương cũng thường xuyên tham gia tư vấn khám chữa bệnh từ xa qua điện thoại (tư vấn sức khoẻ trẻ em và vị thành niên), tivi, qua thư cho nhân dân.
ĐỐI TƯỢNG THỰC HIỆN
Trong nước: Tất cả các cơ sở Y tế tuỳ thuộc vào cấp độ, chức trách nhiệm vụ khi có kết nối mạng Internet (ADSL, dial up,…) đều có thể tham gia
Quốc tế: Các trung tâm y khoa, bệnh viên chuyên khoa đầu ngành các nước như Nhật Bản, Úc, Pháp, Hoa Kỳ, Đài Loan…
PHƯƠNG THỨC TIẾN HÀNH
Công tác chuẩn bị:
- Trang thiết bị, đường truyền
- Nội dung thông tin cần trao đổi.
- Nhân sự liên quan: nhóm kỹ thuật, hội đồng tư vấn chuyên môn
- Thời gian thực hiện.
Tiến hành theo 2 phương thức: Trực tuyến (online) và Không trực tuyến (offline)
Trực tuyến (online):
Đầu cầu có bệnh nhân cần hội chẩn:
- Chuẩn bị bệnh nhân, bệnh án đầy đủ.
- Tóm tắt bệnh án và chuyển về Tổ thư ký trước khi hội chẩn
- Chuẩn bị báo cáo bệnh án dưới dạng Power Point
- Thời gian báo cáo 5 – 10 phút.
· Ban thư ký của Hội đồng tư vấn:
- Liên hệ giữa các đầu cầu.
- Tiếp nhận thông tin của các đầu cầu
- Chuyển các thông tin của bệnh nhân hội chẩn đến các Thành viên Hội đồng trước khi hội chẩn.
- Chuyển chương trình Hội chẩn đến các điểm đầu cầu, trước khi tiến hành hội chẩn.
+ Không trực tuyến (offline):
- Nơi chuyển thông tin về bệnh nhân: (Bệnh viện có bệnh nhân cần hội chẩn)
- Chuẩn bị bệnh án đầy đủ.
- Tóm tắt bệnh án và chuyển về Tổ thư ký của Hội đông tư vấn dưới dạng: Email hay Fax và Điện thoại trực tiếp với Tổ thư ký của Hội đồng tư vấn.
- Nơi tiếp nhận thông tin: (Ban thư ký của Hội đồng tư vấn)
- Liên hệ với đầu cầu (nơi có bệnh nhân hội chẩn) để trao đổi thông tin, nếu cần thiết.
- Tiếp nhận thông tin và trình lên Hội đông tư vấn
- Tập hợp các ý kiến của Hội đồng tư vấn và chuyển lại cho bệnh viện (nơi có bệnh nhân hội chẩn) dưới hình thức: Email hay Fax hoặc điện thoại trực tiếp cho Ban Giám đốc bệnh viện cần hội chẩn
CHI PHÍ THỰC HIỆN
Trang thiết bị:
- Bệnh viện Nhi Trung ương hiện có một số trang thiết bị cho hoạt động y tế từ xa được tài trợ bởi DCC thuộc Trung tâm Y khoa quốc tế Nhật bản (IMCJ).
- Thuê của Công ty viễn thông liên tỉnh VTN.
Đường truyền kết nối viễn thông:
Trong nước: Bệnh viện Nhi Trung ương đã sử dụng đường truyền SHDSL của công ty viễn thông liên tỉnh (VTN) cho các buổi tư vấn khám chữa bệnh từ xa với các đơn vị y tế, bệnh viện trong nước. Kinh phí bao gồm đường truyền và lắp đặt đường truyền, thuê trang thiết bị đầu cuối, Cán bộ hỗ trợ kỹ thuật.
Quốc tế:
+ DCC – IMCJ Nhật bản hỗ trợ kinh phí đường truyền internet cung cấp bởi Netnam cho Bệnh viện Nhi TƯ khi tham gia các hoạt động tư vấn khám chữa bệnh, hợp tác nghiên cứu khoa học và đào tạo từ xa với Nhật Bản trong khuôn khổ hợp tác giữa hai bên.
+ Với các trung tâm y khoa khác trên thế giới : Mạng cáp quang tốc độ cao Tein2/ VinaREN (Mạng nghiên cứu và giáo dục Việt nam) của Bộ Khoa học –CNMT; Bệnh viện Nhi là 1 trong những thành viên đầu tiên tham gia mạng Tein2/VinaREN và đã được hỗ trợ miễn phí đường truyền trong 2 năm đầu tiên. Bắt đầu từ năm 2008 kinh phí sử dụng đường truyền mạng Tein2/ VinaREN sẽ là 25 triệu đồng/ năm, chưa bao gồm kinh phí bảo trì, bảo dưỡng kỹ thuật, chuyên gia,…
KẾT QUẢ
Trong nước:
Bệnh viện Nhi Trung ương đã phối hợp với Công ty viễn thông liên tỉnh VTN đã tiến hành nhiều buổi hội thảo, Hội chẩn, đào tạo từ xa với các bệnh viện đa khoa tỉnh, Bệnh viện Nhi như: Hoà Bình, Thái Nguyên, Nghệ An, TP. Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Vĩnh Phúc, Lào Cai…
Các buổi hội chẩn từ xa đã thu hút nhiều bác sỹ, giáo sư, nhân viên y tế của nhiều bệnh viện tham gia và góp phần nâng cao trình độ chuyên môn, cập nhật phác đồ điều trị bệnh, chẩn đoán bệnh đúng và điều trị hiệu quả cao.
Quốc Tế:
Bệnh viện Nhi Trung ương đã và đang tăng cường và mở rộng hợp tác với Nhật Bản, Úc, Pháp, Đài Loan … thông qua các hoạt động y tế từ xa như tư vấn khám chữa bệnh cho các ca bệnh khó và phức tạp, nghiên cứu khoa học và đào tạo, hội thảo trực tuyến, tư vấn giải phẫu bệnh từ xa, chẩn đoán hình ảnh từ xa, thăm khám bệnh nhân sau phẫu thuật từ xa. Đến nay, Bệnh viện đã thực hiện hơn 30 buổi hội thảo, hội chẩn từ xa với các chuyên gia quốc tế.
- Hội chẩn với Đài Loan về ghép gan, ghép tuỷ…
- Hội chẩn với Nhật về cúm gà, viêm não, thần kinh, sốt kéo dài, các bệnh chuyển hoá, di truyền. ..
- Với Pháp về chẩn đoán hình ảnh…
- Với Úc về ghép tuỷ, ghép gan, các bệnh răng hàm mặt, dự án đào tạo và xây dựng bệnh viện…
- Trong chương trình của Tein2 thực hiện buổi demo trao đổi về cúm gà với công nghệ DVTS nhiều điểm cầu như: Manila venue (Philippin), National Hospital of Pediatrics VN, Chulalongkorn University, (Bangkok, Thailan), Nagasaki University (Nagasaki, Japan), University of Indonesia, (Jakarta, Indonesia), Peking University (Beijing, China), Australia National University (Canberra, Australia), Stanford University (CA, USA).
- Kết hợp với một số trường Đại học của Mỹ: Dartmouth Medical School, Dartmouth Hitchcock Medical Center và Thayer School of Engineering đã và đang triển khai dự án RICE (Trao đổi, hội chẩn và giám sát dịch tễ từ xa).
TỒN TẠI
Chưa tích hợp được: thông tin về chẩn đoán chức nǎng (Điện tim ECG, điện não EEG, hô hấp…), thông tin về hình ảnh (X-quang, siêu âm, CT, MRI…), thậm chí cả những ngân hàng dữ liệu chứa đựng những tri thức hỗ trợ cho việc ra quyết định.
Kinh phí cho đường truyền còn cao nên không thực hiện thường quy được.
Đường truyền thương mại không ổn định nên đôi khi có sự cố trong các buổi hội chẩn.
KIẾN NGHỊ
Tư vấn, khám chữa bệnh từ xa phải được coi như một dịch vụ kỹ thuật cao, phải có kinh phí để hoạt động và duy trì
Cán bộ kỹ thuật phải được đào tạo. Cần có thêm đầu tư vào trang thiết bị hiện đại để phát triển và mở rộng các hoạt động tư vấn, khám chữa bệnh từ xa.